Nghị sĩ Ono Kimi, Bộ trưởng Bộ Nội các đặc trách vấn đề người nước ngoài (Ảnh: Tsunoda Yoshio/Aflo)
Chính quyền Takaichi được cho là sẽ tổng hợp định hướng cơ bản về chính sách người nước ngoài vào tháng 1 năm 2026. Đảng Dân chủ Tự do (LDP) đã thảo luận nội dung đề xuất chính sách người nước ngoài gửi lên chính phủ tại cuộc họp trụ sở chính sách người nước ngoài vào ngày 24 tháng 12, trong đó có các vấn đề như quy định bất động sản, các khoản thuế và phí bảo hiểm chưa nộp, và việc siết chặt các yêu cầu đối với việc định cư vĩnh viễn và nhập tịch.
Tuy nhiên, đây chỉ là một phần của vấn đề khi số lượng người nước ngoài cư trú tăng lên và phát sinh nhiều rắc rối. Cốt lõi của vấn đề là Nhật Bản với tư cách một quốc gia sẽ thực hiện chính sách nhập cư như thế nào.
Từ trước đến nay, chính phủ đã không chính thức chấp nhận việc tiếp nhận người nhập cư, mà luôn giải thích rằng việc tiếp nhận người nước ngoài chỉ nhằm mục đích bổ sung lực lượng lao động và thu hút nhân tài chất lượng cao.
Chưa có một chính sách rõ ràng nào được đưa ra về việc liệu tình trạng này sẽ tiếp tục với việc siết chặt các điều kiện về visa và nhập cư, hay sẽ có sự thay đổi. Hiện tại, chỉ có việc tăng cường một phần các quy định và thảo luận về việc có nên giới hạn tổng số người nhập cư hay không, dựa trên bản ghi nhớ liên minh giữa LDP và Ishin.
Theo Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, tính đến cuối tháng 6 năm 2025, số người nước ngoài cư trú là 3.956.619 người, đạt mức cao nhất lịch sử. Việc hệ thống Kỹ năng đặc định được triển khai vào năm 2019 đã thúc đẩy mạnh mẽ việc tiếp nhận lao động nước ngoài được coi là yếu tố chính. Nếu số lượng người nước ngoài tiếp tục tăng với tốc độ này, tỷ lệ người nước ngoài trong tổng dân số có thể đạt 10% vào khoảng năm 2040.
Khi nhìn nhận người nước ngoài cư trú từ góc độ nhập cư, có thể chia thành hai nhóm lớn. Một nhóm là những người đến Nhật Bản với các tư cách lưu trú như Thực tập sinh kỹ năng và Kỹ năng đặc định, chủ yếu để giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động. Nhóm còn lại là những người nhập cảnh bằng "visa quản lý kinh doanh" và những người sau khi du học Nhật Bản đã chuyển sang các tư cách như "Kỹ thuật, Tri thức nhân văn, Nghiệp vụ quốc tế (Gi-jin-koku)" để hướng tới việc lưu trú dài hạn hoặc định cư vĩnh viễn.
Nói cách khác, nhóm thứ nhất chủ yếu là "người nhập cư lao động" làm công việc phổ thông, còn nhóm thứ hai là những người được gọi là "nhân lực chất lượng cao". Do đó, nhìn vào thiết kế hệ thống hiện tại, có thể nói rằng tổng thể đang hướng tới việc tăng số lượng người định cư và người nhập cư. Nhật Bản đang cố gắng bù đắp tình trạng thiếu hụt lao động do tỷ lệ sinh giảm và dân số suy giảm nghiêm trọng bằng cách tiếp nhận người nhập cư.
Khi vấn đề người nước ngoài được thảo luận, người ta thường nghe thấy ý kiến rằng "chỉ cần thiết lập các quy tắc nghiêm ngặt như Singapore, kiểu như làm việc xong thì về, có thai thì về".
Quả thật, ở Singapore, đối với lao động phổ thông trong ngành xây dựng hoặc giúp việc gia đình, chỉ cấp "giấy phép lao động" có thời hạn và về nguyên tắc không cho phép đoàn tụ gia đình hay định cư. Ngược lại, đối với nhân lực chất lượng cao, Singapore cấp "giấy phép lao động" và mở ra con đường định cư, khuyến khích họ ở lại lâu dài để phát triển đất nước.
Nhưng liệu Nhật Bản có thể làm được điều này không?
Mức lương trung bình hàng tháng của Singapore vào năm 2025 là 7.500 đô la Singapore (khoảng 910.000 yên). Trong khi đó, mức lương trung bình hàng tháng của Nhật Bản là khoảng 330.000 yên. Đối với nhân lực chất lượng cao, sự chênh lệch về thu nhập thậm chí còn lớn hơn.
Ngoài ra, đối với lao động phổ thông, trong khi Nhật Bản trả khoảng 1.000 yên/giờ, Singapore trả từ 10 đến 15 đô la Singapore (khoảng 1.220 yên đến 1.830 yên).
Với tình hình này, không thể áp dụng hệ thống của Singapore. Vì Nhật Bản không thể trả mức lương tương đương Singapore, nên sẽ không có lao động nhập cư nào đến. Hơn nữa, tiếng Anh không phải là ngôn ngữ chung trên thế giới ở Nhật Bản, vì vậy nếu không học tiếng Nhật, sẽ không thể làm việc được.
Trong suốt "30 năm mất mát", các quốc gia xuất xứ của người lao động nhập cư đến Nhật Bản đã có những thay đổi lớn.
Theo "Tình hình việc làm của người nước ngoài" của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi (tính đến cuối tháng 10 năm 2024), bảng xếp hạng các quốc gia có lao động nước ngoài làm việc tại Nhật Bản như sau: vị trí thứ nhất là Việt Nam (570.708 người, khoảng 24,8%), thứ hai là Trung Quốc (408.805 người, khoảng 17,8%), thứ ba là Philippines (245.565 người, khoảng 10,7%), thứ tư là Nepal (185.551 người, khoảng 8,1%), và thứ năm là Indonesia (169.539 người, khoảng 5,6%).
Trước đây, Trung Quốc là quốc gia có số lượng lớn nhất, nhưng Việt Nam đã vượt qua vào năm 2019 và giữ vị trí số một kể từ đó. Trước Trung Quốc, nhiều người đến từ các nước Nam Mỹ như Brazil, Peru, và Iran cũng từng nằm trong top.
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, số lượng người từ Myanmar, Sri Lanka, Nepal... đang tăng nhanh chóng. Tất cả đều là các quốc gia đang phát triển bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển kinh tế.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, mỗi năm có khoảng 5,9 triệu lượt di cư lao động mới phát sinh trong khu vực châu Á. Trong số này, khoảng một nửa, tức 2,82 triệu người, di cư đến các quốc gia sản xuất dầu mỏ vùng Vịnh như UAE, Qatar, Ả Rập Xê Út.
Khoảng 2,3 triệu người còn lại đang hướng đến các quốc gia phát triển ở châu Âu, châu Mỹ và các quốc gia trong khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Nơi di cư lao động nhiều nhất trong khu vực châu Á là Nhật Bản với khoảng 480.000 người, tiếp theo là Hàn Quốc với khoảng 370.000 người.
Tuy nhiên, lợi thế này của Nhật Bản đang dần sụp đổ. Đó là do suy thoái kinh tế và đồng yên yếu đang làm giảm giá trị tiền lương.
Hiện nay, Nhật Bản đã bị Hàn Quốc và Đài Loan vượt qua về GDP bình quân đầu người, do đó, người lao động từ các nước châu Á đang hướng đến Hàn Quốc và Đài Loan nhiều hơn là Nhật Bản. Điều này thể hiện rõ trong xu hướng di cư lao động của người Việt Nam gần đây.
Ngoài ra, Philippines là một trong những quốc gia xuất khẩu lao động giúp việc gia đình và xây dựng lớn nhất thế giới, nhưng Nhật Bản với mức lương thấp và không sử dụng tiếng Anh đang không còn được quan tâm.
Chênh lệch kinh tế tạo ra lao động nhập cư. Người dân di chuyển từ các quốc gia nghèo đến các quốc gia giàu có. Nhiều quốc gia xuất khẩu lao động nhập cư trên thế giới có GDP bình quân đầu người thấp hơn so với các quốc gia tiếp nhận nhập cư.
Tuy nhiên, ở các quốc gia nghèo nhất, người dân không thể chi trả chi phí và phương tiện di chuyển ra nước ngoài, do đó lao động nhập cư sẽ không xuất hiện nếu không có các ưu đãi từ nước tiếp nhận nhập cư hoặc sự can thiệp của các công ty môi giới.
Do đó, khi nền kinh tế đạt đến một mức độ nhất định và có thể đảm bảo chi phí di chuyển, lao động nhập cư sẽ tăng vọt. Mức độ đó được cho là khi GDP bình quân đầu người nằm trong khoảng từ 6.000 đến 10.000 USD.
Việt Nam, trước đây có GDP bình quân đầu người dưới 5.000 USD, nên thường có sự tham gia của các công ty môi giới. Tuy nhiên, dự kiến vào năm 2025, con số này sẽ vượt quá 5.000 USD, vì vậy trong tương lai, người Việt Nam có thể sẽ hướng đến các quốc gia có thu nhập cao hơn Nhật Bản.
Trong những năm gần đây, số lượng lao động nhập cư từ các quốc gia như Nepal, Sri Lanka, Bangladesh đến Nhật Bản đang gia tăng. Tất cả các quốc gia này đều có GDP bình quân đầu người thấp.
Lao động nhập cư từ Myanmar cũng đang tăng lên, nhưng GDP bình quân đầu người của Myanmar được cho là khoảng 1.000 USD. Tuy nhiên, do bị chính quyền quân sự kiểm soát và trong tình trạng nội chiến, nên những người trẻ bỏ trốn ra nước ngoài không ngừng, chứ không hẳn là nhập cư.
Từ những điều trên có thể thấy rằng, chừng nào kinh tế Nhật Bản còn suy thoái và đồng yên còn yếu, thì những lao động nhập cư mà Nhật Bản mong muốn sẽ không đến. Không chỉ lao động phổ thông mà cả nhân lực chất lượng cao cũng sẽ không đến, trừ khi có điều gì đó đặc biệt xảy ra.
Nếu không thể trông cậy vào lao động nhập cư từ các quốc gia Đông Nam Á dễ hòa nhập với xã hội Nhật Bản, thì Nhật Bản sẽ phải dựa vào các quốc gia nghèo ở Trung Đông và châu Phi. Đúng hơn là, chừng nào chính sách nhập cư nửa vời như hiện tại còn tiếp diễn, thì điều đó sẽ là tất yếu. Các quốc gia xuất khẩu người nhập cư chính ở châu Phi có thể kể đến Nigeria, Ghana, Kenya... Đặc biệt, Kenya đang thực hiện việc xuất khẩu người nhập cư như một dự án quốc gia.
Thật sự thì chính quyền Takaichi đang vẽ ra một viễn cảnh tương lai như thế nào? Với nhận thức lỗi thời về hiện trạng, các biện pháp siết chặt quy định mang tính tạm thời và chính sách nhập cư nửa vời sẽ không giải quyết được vấn đề người nước ngoài. Hơn nữa, trong tương lai gần, Nhật Bản sẽ từ một quốc gia tiếp nhận người nhập cư trở thành một quốc gia xuất khẩu người nhập cư.
Sự "già đi" sẽ đến với tất cả mọi người. Khi đó, ai sẽ ở bên bạn? Năm 2025, Nhật Bản đối mặt với một tình huống chưa từng có khi tất cả thế hệ baby boomer đều đã trên 75 tuổi. Nhu cầu chăm sóc người cao tuổi tăng vọt cùng với sự gia tăng của nhóm dân số cao tuổi, nhưng tình trạng thiếu hụt nhân lực kinh niên đang đẩy lĩnh vực này đến bờ vực sụp đổ. Xem ảnh: "Nhân viên điều dưỡng nước ngoài" hỗ trợ ngành điều dưỡng Nhật Bản Trong bối cảnh tuyệt vọng này, điều đang thu hút sự chú ý là việc thu hút sinh viên quốc tế từ châu Á đến thị trấn Higashikawa, Hokkaido. Bài viết theo sát thực tế về việc các nhân viên điều dưỡng từ nước ngoài đang hỗ trợ "ngôi nhà cuối cùng" của Nhật Bản.
Ông Tomizuka chia sẻ về sức hấp dẫn của ngành điều dưỡng với giới trẻ Indonesia
"Chúng tôi muốn những ai muốn trở thành 'siêu anh hùng' hỗ trợ người cao tuổi Nhật Bản hãy theo đuổi nghề điều dưỡng viên." Vào tháng 4 năm 2025, ông Tomizuka Minoru (53 tuổi), giảng viên dạy điều dưỡng tại Trường Cao đẳng Văn hóa và Phúc lợi Quốc tế Higashikawa, đang ở Garut, Indonesia, cách Hokkaido khoảng 5.600 km. Mục đích là để tuyển sinh viên muốn trở thành điều dưỡng viên tại Nhật Bản. Ở Garut, chỉ có khoảng 20% học sinh tốt nghiệp cấp ba có thể tìm được việc làm ổn định. Mức lương trung bình hàng tháng ở Indonesia là 30.000-40.000 yên. Trong khi đó, mức lương khởi điểm trung bình cho sinh viên tốt nghiệp trường chuyên ở Higashikawa làm nghề điều dưỡng là trên 160.000 yên, tức gấp khoảng 4 lần. Những lời nhiệt huyết của ông Tomizuka đã được giới trẻ lắng nghe một cách chăm chú. "Tôi thực sự rất vui khi có thể làm việc tại Nhật Bản" (Một sinh viên Indonesia). Thị trấn Higashikawa, với dân số khoảng 8.700 người nằm ở trung tâm Hokkaido, được biết đến là một đô thị hiếm hoi có dân số tăng khoảng 20% trong 30 năm qua nhờ việc tích cực tiếp nhận người nhập cư. Tuy nhiên, ngay cả thị trấn Higashikawa cũng không thể chống lại xu hướng già hóa dân số và giảm tỷ lệ sinh nhanh chóng. Nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ngày càng tăng, trong khi tình trạng thiếu hụt nhân lực khiến thị trấn gặp khó khăn. Ông Tomizuka cũng là một trong những người lo lắng về tình hình hiện tại. "Số người cao tuổi đang tăng lên nhưng lại có ít người hỗ trợ. Người Nhật không còn có thể tự hỗ trợ người cao tuổi Nhật Bản nữa." Trường Chuyên ngành Phúc lợi Asahikawa (nay là Trường Cao đẳng Văn hóa và Phúc lợi Quốc tế Higashikawa) nơi ông Tomizuka từng làm việc đã không tuyển đủ số lượng sinh viên vào năm 2013. Để khắc phục tình trạng này, trường đã mở rộng tiếp nhận sinh viên quốc tế. Phối hợp với thị trấn Higashikawa và các đơn vị khác, vào năm 2018, trường đã chuyển hướng tập trung vào việc thu hút mạnh mẽ giới trẻ từ các nước châu Á và chuyên sâu vào "lĩnh vực điều dưỡng".
Các chương trình truyền hình giải trí thường chỉ đề cập đến "visa nhập cư/quản lý", nhưng...
"Chỉ cần tốt nghiệp đại học Nhật Bản là tự động có visa." "Đưa con cái đi học đại học Nhật Bản có lợi về chi phí hơn." Xem ảnh: Tuyệt vời…! Hình ảnh quyến rũ của những cô gái Trung Quốc chèo kéo khách với giá cắt cổ đang hoành hành ở Yushima, Tokyo…! — Những lời thì thầm ngọt ngào như vậy đang lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội Trung Quốc và giữa các công ty tư vấn du học gần đây. Hiện nay, truyền thông và các chính trị gia đang ồn ào về "visa quản lý kinh doanh". "Visa quản lý kinh doanh" là tư cách lưu trú dành cho người nước ngoài khởi nghiệp tại Nhật Bản. Vấn đề đang được tranh cãi là liệu visa này có đang bị "lạm dụng, lợi dụng" để cho con cái đi học ở Nhật hoặc để nhận điều trị y tế hay không. Quả thật, hình ảnh một tòa nhà 40 phòng với hơn 100 công ty vỏ bọc của Trung Quốc được đăng ký, "không một bóng người", được đưa tin trên các chương trình giải trí đã gây ấn tượng mạnh. Tuy nhiên, với việc sửa đổi sắc lệnh có hiệu lực vào ngày 16 tháng 10 năm 2025, các yêu cầu để có được "visa quản lý kinh doanh" đã trở nên nghiêm ngặt hơn. Yêu cầu về vốn điều lệ đã tăng từ trên 5 triệu yên lên trên 30 triệu yên, và bắt buộc phải thuê ít nhất một nhân viên chính thức. Kinh nghiệm quản lý từ ba năm trở lên hoặc bằng cấp tương đương thạc sĩ, và việc thẩm định kế hoạch kinh doanh của chuyên gia cũng đã được yêu cầu bắt buộc. Nhưng, điều gì sẽ xảy ra nếu một loại visa khác, được gấp khoảng 10 lần số người nước ngoài có được so với visa quản lý kinh doanh, và được coi là động cơ thực sự thúc đẩy sự gia tăng người nhập cư nước ngoài, lại đang bị bỏ qua? Đó chính là "tư cách lưu trú dành cho người nước ngoài đã tốt nghiệp các trường đại học Nhật Bản hoặc có trình độ học vấn tương đương trở lên, để thực hiện các hoạt động liên quan đến kỹ thuật, tri thức nhân văn và nghiệp vụ quốc tế tại Nhật Bản" — viết tắt là "visa Gi-jin-koku" (gijin-koku). Visa Gi-jin-koku được tạo ra cùng thời điểm với "visa quản lý kinh doanh" theo sửa đổi Luật Quản lý Xuất nhập cảnh và Công nhận Người tị nạn vào ngày 1 tháng 4 năm 2014. Thật đáng ngạc nhiên, số người có được visa Gi-jin-koku đã tăng 170.000 người trong 5 năm qua. Con số này gấp khoảng 20 lần so với visa quản lý kinh doanh (khoảng 8.000 người). Điều này cho thấy rõ ràng các trường đại học Nhật Bản đang trở thành "nhà máy cấp bằng tốt nghiệp". Như đã đề cập trước đó, visa quản lý kinh doanh đã có rào cản khá cao với "yêu cầu vốn 30 triệu yên, thuê 1 nhân viên chính thức, và 3 năm kinh nghiệm". Thậm chí có thể nói là "phiền phức" hơn. Trong tương lai, có lẽ sẽ càng có xu hướng "nếu Nhật Bản làm như vậy, visa Gi-jin-koku sẽ an toàn và chắc chắn hơn", theo đúng câu tục ngữ Trung Quốc "trên có chính sách, dưới có đối sách".
"Các trường đại học như của chúng tôi, dù may hay rủi, đã bị người Trung Quốc bỏ rơi... nhưng có lẽ họ sẽ lại tăng lên," giáo sư A hiện đang giảng dạy tại một trường đại học mà người ta thường gọi là "đại học F-rank" mở lời một cách nặng nề. "Sinh viên quốc tế từ Nepal, Myanmar, Việt Nam đang làm việc và học tập rất chăm chỉ. Sinh viên Trung Quốc không làm thêm nên rất dễ nhận biết. Và hầu hết đều gần như trượt. Mức độ không chịu học hành của họ không khác gì các vận động viên được tài trợ đặc biệt của Nhật Bản. Những học sinh như vậy tiếng Nhật cũng chẳng tiến bộ chút nào. Cứ thế, họ rơi vào vòng luẩn quẩn không hiểu bài, rồi càng không chịu học. Khi việc lên lớp cũng bị đe dọa, phụ huynh từ Trung Quốc bay sang, nài nỉ nhà trường với giọng địa phương đặc sệt tiếng Trung rằng 'Con chúng tôi không có học vấn là lỗi của chúng tôi. Xin hãy giúp cháu tốt nghiệp đại học Nhật Bản bằng mọi cách'. Dù trường chúng tôi không phải là nơi mà người ta phải ở lại 6 năm và trả gần 10 triệu yên học phí để tốt nghiệp..." (Giáo sư A) Con đường sau khi tốt nghiệp của họ cũng tương tự như các "đại học F-rank" khác. Đặc biệt, giáo sư A đã cho tôi xem dữ liệu thống kê mà trường đã xóa khỏi trang web công khai từ năm nay. Trong số khoảng 100 sinh viên quốc tế mỗi năm, có khoảng 50 người là sinh viên Trung Quốc. <khoảng 20 sinh viên (40%) "tìm việc làm trong nước", khoảng 20 sinh viên (40%) "về nước", khoảng 10 sinh viên (20%) "tìm việc làm ở nước ngoài"> Từ lời giải thích tự giễu của giáo sư A, một thực tế bất tiện đã hiện rõ. "Trong số các học trò của tôi, chỉ có duy nhất một sinh viên Trung Quốc có thể tìm được việc làm chính thức tại một công ty cỡ trung ở Nhật Bản trong hai năm. Có dữ liệu cho thấy gần 70% người ở Trung Quốc đại lục không có việc làm, vì vậy tôi nghi ngờ liệu những người này có thực sự tìm được việc làm và đang làm việc tại Nhật Bản hay không. Mặc dù có khoảng 40% thuộc nhóm 'tìm việc làm trong nước', nhưng những người mà tiếng Nhật còn bập bõm như vậy chỉ được 'nhận' vào các công ty của người Trung Quốc tại Nhật. Trường chúng tôi không phải là không công khai các công ty tuyển dụng mà là không thể công khai. Ngay cả tôi cũng không được biết tên công ty. Visa Gi-jin-koku sẽ không được gia hạn trừ khi có sự công nhận về mối liên hệ giữa chuyên ngành và công việc, và được tuyển dụng làm nhân viên chính thức hoặc nhân viên hợp đồng (toàn thời gian). Tuy nhiên, 'mối liên hệ giữa chuyên ngành' chỉ là hồ sơ được phòng du học ký duyệt. Hình thức tuyển dụng chỉ là một giấy chứng nhận của công ty. Cục quản lý xuất nhập cảnh không xem xét chất lượng của trường đại học hay nội dung công việc. Ban đầu, gần như tất cả sinh viên Trung Quốc là những 'ứng cử viên NEET' (và phụ huynh của họ) đã du học mà không biết đó là một đại học F-rank. Mặc dù họ có được tư cách lưu trú với bằng đại học, nhưng họ thường nghỉ việc tại các công ty của giám đốc người Trung Quốc tại Nhật Bản trong vòng 1-2 năm và chuyển việc liên tục."
Thêm vào đó, mặt tối thực sự nằm ở con đường dẫn đến việc có được visa vĩnh trú. Bản thân visa Gi-jin-koku, có được sau khi tốt nghiệp đại học F-rank, là một loại visa lao động và mặc dù có giới hạn về thời gian lưu trú, việc thay đổi tư cách lưu trú từ du học sang Gi-jin-koku là con đường chính để định cư lâu dài tại Nhật Bản. Theo con đường này, nếu đáp ứng đủ yêu cầu lưu trú 10 năm, có thể nộp đơn xin phép vĩnh trú. Trong thời gian đó, có thể bảo lãnh vợ/chồng và con cái (visa đoàn tụ gia đình), và không giống như visa quản lý kinh doanh với tiền đề "đóng góp kinh tế", các điều kiện tương đối lỏng lẻo. Điều này cho phép đoàn tụ gia đình ngay từ năm đầu tiên sau tốt nghiệp, và vợ/chồng cùng con cái được phép làm thêm tối đa 28 giờ mỗi tuần. Trong trường hợp khẩn cấp, cả gia đình có thể làm việc tại công ty của đồng hương, nếu trả lương bằng tiền mặt thì về cơ bản có thể giảm gánh nặng thuế và không cần phải có giấy phép hoạt động ngoài tư cách. Có trường hợp cả gia đình sống bằng việc làm thêm sau khi bảo lãnh vợ/chồng và con cái sang Nhật, còn người bảo lãnh thì nghỉ việc và nhận bảo hiểm thất nghiệp. Trong khi những "lỗ hổng" này đang bị bỏ mặc, cũng tồn tại một con đường đặc biệt cho phép nộp đơn xin visa vĩnh trú trong thời gian ngắn nhất là 1 năm. Đó là "chuyển đổi từ visa Gi-jin-koku sang visa chuyên gia chất lượng cao". Các yêu cầu bao gồm trình độ học vấn, thu nhập hàng năm và nhiều mục khác, cần tổng cộng từ 70 điểm trở lên (nếu trên 80 điểm có thể nộp đơn xin vĩnh trú trong thời gian ngắn nhất là 1 năm), và rào cản này không hề thấp.
Dù sao đi nữa, visa Gi-jin-koku thực chất là một loại visa thúc đẩy việc lưu trú và định cư lâu dài, trở thành yếu tố lớn trong việc gia tăng dân số người nước ngoài. Thực tế, vấn đề gia đình đoàn tụ tăng lên, tranh giành nhà ở công cộng trở nên gay gắt, và các nhà trẻ, trường mẫu giáo được tài trợ bằng công quỹ bị quá tải đã được báo cáo ở Saitama và Chiba. Nếu con cái của gia đình có visa Gi-jin-koku được nuôi dưỡng theo hệ thống trường công từ 0 đến 18 tuổi, nhận cùng giáo dục và y tế như người Nhật, thì ít nhất sẽ được hưởng lợi hàng triệu yên (chi phí giáo dục: gần như miễn phí, chi phí y tế: trợ cấp trẻ sơ sinh, trợ cấp trẻ em: 2,1 triệu yên được cấp). Mỗi năm, một lượng lớn công quỹ được đổ vào giáo dục, y tế và trợ cấp cho con cái của các gia đình có visa Gi-jin-koku. Như vậy, liệu 8.000 người có visa quản lý kinh doanh có vẻ không đáng kể? Nếu muốn một cuộc cải cách không có vùng cấm, thì các trường đại học F-rank đã trở thành cơ quan cấp visa Gi-jin-koku chính là trung tâm của vấn đề nhập cư. Tuy nhiên, chính phía Nhật Bản đã tràn lan các khoản trợ cấp ngay từ khi tiếp nhận sinh viên đại học và về mặt hệ thống, đã hoan nghênh sự gia tăng người nhập cư. Chẳng phải việc không tự vấn, liên tục thay đổi cách làm và tự mình đào hố chôn mình sao? Nếu muốn sớm thực thi tổng số quy định, cách nhanh nhất là bịt "lỗ hổng" lớn nhất = "các trường đại học không thể tồn tại nếu không có sinh viên quốc tế và trợ cấp". Nếu không, túi tiền của người Nhật sẽ cạn kiệt.